Văn chỉ Minh Hương - di tích Nho học ở Hội An
- Thứ tư - 08/10/2025 15:18
- In ra
- Đóng cửa sổ này

Đây là thiết chế văn hóa tín ngưỡng do cộng đồng làng Minh Hương ở Hội An xây dựng để thờ Khổng Tử cùng Tứ phối, các vị tiên triết, tiên hiền, tiên nho và những vị có học, đỗ đạt cao trong làng Minh Hương vào nửa cuối thế kỷ 19.
Đồng thời đây còn là nơi lưu dấu ấn đậm nét của danh nhân Tiến sĩ Đặng Huy Trứ (1825 - 1874) - người từng đảm nhận chức Bố chánh Quảng Nam. Với những giá trị đặc sắc đó, Văn chỉ Minh Hương đã được UBND tỉnh Quảng Nam trước đây xếp hạng là di tích kiến trúc nghệ thuật cấp tỉnh vào ngày 5/1/2023.
Vùng đất Hội An nói riêng, Quảng Nam nói chung trong lịch sử vốn nổi tiếng là vùng đất học, là nơi đã sinh ra nhiều bậc khoa bảng, nhân sĩ nổi danh. Qua các tư liệu cho biết thời kỳ phong kiến, Hội An có 3 vị đỗ đại khoa và nhiều vị đỗ Tú tài.
Với truyền thống học hàng và đỗ đạt như vậy nên trên mảnh đất Hội An từ sớm đã có đến 3 Văn Thánh miếu (Văn chỉ) để thờ Khổng Tử, tôn vinh việc học theo hệ tư tưởng Nho giáo, đó là Văn chỉ Minh Hương, Văn Thánh miếu Cẩm Phô, Văn Thánh miếu Thanh Hà; và sau này Khổng Tử miếu được xây dựng để làm trung tâm dạy học của cả tỉnh Quảng Nam. Trải qua thời gian cùng biến động của thời cuộc, đến nay các di tích trên vẫn còn hiện diện, chỉ trừ Văn Thánh miếu Thanh Hà đã bị sụp đổ hoàn toàn trong thời kỳ chiến tranh chống Pháp, Mỹ.
Về thời gian xây dựng Văn chỉ Minh Hương, theo văn bia được lập năm 1871 do Tiến sĩ Ban Biện quân vụ các tỉnh Lạng, Bằng, Ninh, Thái, người đã từng đảm nhận chức Bố chánh Quảng Nam (năm 1864) Đặng Huy Trứ đề bút đã cho biết di tích này được khởi dựng vào năm 1867 (năm Đinh Mão) và hoàn thành vào năm 1868 (năm Mậu Thìn).
Ngoài văn bia xây dựng miếu năm 1871, tại di tích còn lưu giữ xà cò niên đại Duy Tân thứ 5 (1911) ghi lại sự kiện tu bổ miếu và cặp câu đối chữ Hán - Nôm niên đại Bảo Đại thứ 12 (1937) được đắp trên mặt sau hai trụ cổng. Như vậy, có thể nhận định Văn chỉ Minh Hương tại vị trí hiện nay được khởi dựng vào năm 1867 và hoàn thành vào năm 1868.
Văn chỉ Minh Hương có mặt tiền xoay về hướng Nam, bố cục tổng thể gồm có tường rào, cổng ngõ, sân trước, bình phong, chính điện, nhà Tây. Hạng mục cổng xây theo kiểu thức tam quan bằng gạch tô trát vữa, các trụ biểu đắp nổi các câu đối Hán - Nôm được trích từ các kinh điển của Nho giáo: “Minh như nhật nguyệt ngũ tinh Thư, Dịch, Xuân Thu, Thi Lễ/ Hương nhi huyện châu tam quốc Thanh, Danh, Văn vật, Y, Quan; Thùy xuất bất do lễ giả môn dã/ Hữu xu nhi quá đạo nhược lộ nhiên”. Bên cạnh đó, trên cổng còn được trang trí các đồ án tinh xảo thông qua nghệ thuật đắp nổi nề vữa như hoa sen, “Lý ngư hóa long” với đường nét mềm mại, uyển chuyển giàu giá trị thẩm mỹ.
Giữa sân là đỉnh hương và song bình (2 bình hoa) ở hai bên đỉnh hương. Tổng thể hạng mục này như một bức bình phong án ngữ trước mặt miếu chính. Đỉnh hương và song bình được tạo tác bằng chất liệu vữa. Đỉnh hương có dạng hình khối chữ nhật, chính giữa các mặt bình phong được đắp nổi chữ夀 (Thọ) theo thủ bút Triện thư dạng tròn, hai bên được đắp nổi thành hình tượng 8 quẻ đơn trong kinh dịch bát quái: quẻ Càn (☰), Khảm (☵), Cấn (☶), Chấn (☳), Tốn (☴), Ly (☲), Khôn (☷), Đoài (☱).
Chính điện được xây dựng theo kiểu thức ba gian, có hai nếp kiến trúc, trong đó chỉ gồm một nếp mái và có mái giả để phân chia thành hai không gian chức năng: nếp nhà trước là không gian để hành lễ, tế tự, nếp nhà sau là không gian thờ tự. Kết cấu kiến trúc chính điện chủ yếu bằng gỗ, kiến trúc vì kèo theo kiểu trính chồng trụ đội, mái lợp ngói âm dương, tường bao xây bằng gạch tô trát vữa, cột gỗ tiết diện tròn, nền lát gạch đất nung hình lục giác...
Có thể khẳng định sự hình thành, tồn tại đến ngày nay của di tích Văn chỉ Minh Hương minh chứng cho truyền thống hiếu học, khoa bảng, tôn sư trọng đạo, lễ nghi trong văn hóa và phẩm hạnh đạo đức của các thế hệ cư dân Hội An, Quảng Nam trong lịch sử. Ngày nay, di tích này vẫn đang phát huy tốt vai trò giáo dục truyền thống hiếu học, tôn sư trọng đạo, góp phần quan trọng trong xây dựng và phát triển văn hóa, con người Hội An nói riêng, xứ Quảng nói chung.
baodanang