Tụy Tiên Đường Minh Hương
- Thứ hai - 18/04/2011 13:26
- In ra
- Đóng cửa sổ này
Đình này được coi là kiến trúc tôn giáo của người Minh Hương - Trung Hoa được nhập quốc tịch Việt Nam để thờ cúng tổ tiên.
Tụy Tiên Đường Minh Hương được cho phép xây dựng để thấy làng Minh Hương ở Hội An vào giữa thế kỷ 17. Nó là một di tích tiêu biểu và đóng một vai trò có ý nghĩa trong sự tồn tại lịch sử và phát triển của đô thị cổ - thương cảng Hội An. Kiến trúc này có được một phạm vi khá lớn về xây dựng. Những bàn tay khéo léo của các nghệ nhân ở làng mộc Kim Bồng đã tạo ra tác phẩm kiến trúc và các thợ mộc tài năng ở Kim Bồng đang thực hiện phục hồi của nó. Minh Hương Tụy Tiên Đương được phục hồi vào năm 1820, 1849, 1905, 1953, 1970. Đây là một điểm đến hấp dẫn cho du khách đến Hội An. Tụy Tiên Đường Minh Hương đã được cấp giấy chứng nhận của khu di tích lịch sử - văn hóa vào ngày 29 tháng 3 năm 1993.
Hoành phi ghi: TƯỜNG QUANG VIỄN CHIẾU
Theo văn bia lập từ thời vua Duy Tân năm thứ hai (1908) đang trí tại đình tiền hiền Minh Hương có thể khẳng định: Đình được lập năm 1820.
明 命 初 元 建 前 賢 祠 額 曰 萃 先 堂
MINH MẠNG SƠ NGUYÊN KIẾN TIỀN HIỀN TỪ,
NGẠCH VIẾT “TỤY TIÊN ĐƯỜNG”
Minh Mạng năm thứ nhất (1820) xây dựng đình Tiền Hiền,
Ghi chữ trên hoành phi là “Tụy Tiên Đường”
Lúc này, đình được tạo dựng trên khu đất của miếu Văn Thánh Minh Hương hiện tại (20 Phan Châu Trinh).
Đến năm 1848, đình được tháo dỡ dịch chuyển qua khu cận kề trong cùng khu đất, văn bia lập năm 1908 ghi lại như sau:
TỰ ĐỨC NHỊ NIÊN (1848) TRÙNG TU
Sau lần trùng tu này, đình tồn tại đến năm 1905 thì được thiên di về vị trí hiện nay.
Chánh điện MINH HƯƠNG TỤY TIÊN ĐƯỜNG
(Tụy: Tụ họp; Tiên: Người xưa quá vãng)
Năm 1940, Xã Minh Hương tiếp tục trùng tu lần thứ ba, di chuyển miếu Minh Văn sang nhà tây phía sau, gắn hai văn bia của miếu Minh Văn vào nhà đông phía trước, xây thêm hai nhà làm việc đồng thời tu sửa mái hiên chánh điện bằng vật liệu kiên cố.
Năm 2004 và 2008 thêm hai đợt đại trùng tu nữa.
Do cử nhân Trương Đồng Hiệp (1857-1926) người làng Minh Hương phụng soạn và phó bảng Nguyễn Thuật (1842-1911) hiệu Hà Đình, quê Hà Lam - Thăng Bình, cử nhân khoa Đinh Mão 1867, phó bảng khoa Mậu Thìn 1868, đại thần triều Nguyễn, danh sĩ hưu trí hiệu chỉnh. Ông Phạm Thúc Hồng dịch nghĩa.
"Xưa, các bậc tiên sinh của làng quá vãng thờ cúng tại xã vì các vị có công đức được tôn vinh và báo đáp.
Khi xây dựng một làng tất phải nhớ công lao của tiền nhân. Người đời không thể quên đức tốt đã truyền lưu. Phải mong điều ấy! sao lại bỏ qua đi !
Đền thờ làng ta phụng thờ các vị Ngụy, Trang, Ngô, Thiệu, Hứa, Ngũ, mười vị đại lão. Họ trước là cựu thần nhà minh. Vận nhà Minh đã qua, lòng họ không nhận hai vua nên từ quan, đổi tên họ, lánh nạn đến đất phương nam, rồi họp người Tàu lại tại xứ nam, chọn chữ Minh để giữ quốc hiệu.
Ba mươi sáu tỉnh đều có như vậy! Quảng nam có đầu tiên. Lúc đầu, họ ở Trà Nhiêu rồi tìm chuyển đến Hội An là nơi gần nguồn sông thông với núi và biển rất thuận lợi, quy hoạch làng xóm, xây dựng cửa hàng lưu lại lâu dài cho đến nay.
Mười vị đại lão qua đời. Ba vị đại gia kế tục gọi là : Tẩy Quốc Công, Ngô Đình Công, Trương Hoằng Công đều có năng lực.
Tiền nhân lúc đầu trồng dâu, lập địa bộ, khai khẩn đất hoang, lấy đất bồi làm khu dân cư, mở cửa hàng để tập họp buôn bán. các đền, chùa được xây dựng trang nghiêm để thở cúng.
Thời kỳ tu tạo đình chùa có bà họ Ngô là con dâu nhà tộc Trịnh đã phát nguyện mua đất góp thêm vào đó. Nhà sư Huệ Hồng cúng đất chùa rất rộng vào đó.
Mộ sư Huệ Hồng, xưa ở ngay trước cửa Quan Công miếu. Năm 1848 thỉnh dời đến chùa Chúc Thánh, bia mộ ghi: "THIÊN TRỤ - VIÊN TỊCH HUỆ ĐẠI ĐẠI THIỀN SƯ CẢI THIÊN CHI THÁP - MINH HƯƠNG XÃ ĐỒNG LẬP"
Nhân dân hòa thuận, công việc tăng tiến, tập tục thuần hậu, phong hóa phát triển, thiên nhiên trù phú, vạn vật tốt tươi. Thật là tự làm sáng rõ ba mươi mốt nơi đô hội phương nam.
Từ triều Lê đến đất nước mới lập đều được hậu đãi và người dân không chuyển làng khác. Con dấu làng làm bằng ngà voi. Việc chính trị trực thuộc cấp tỉnh điều hành. Việc khánh hạ cân nhắc trình tấu. Trai tráng vào quân binh. Hằng năm, làng dâng cống vải lụa hoặc thay thế bằng tiền. Người có tài xuất chúng được nhận vào hàng quan lại.
Khi nước nhà được dựng lại, công thần giúp nước có đại tướng quân tộc Lý được tùng tự miếu thờ theo hàng trung dũng, tước hầu bá cùng nhiều danh nhân được phụng tự.
Bia mộ bà Ngô Thị Lành tại chùa Chúc Thánh qua đời khoảng năm 1685 ghi:
"THẠCH TĨNH - MINH CỐ TỶ TRỊNH MÔN PHÁP DANH DIỆU THÀNH NGÔ NHỤ NHÂN MỘ - Chi tuế thứ Ất Sữu niên, mạnh đông, cát đán lập."
(Trước đây mộ nằm gần nhà thờ Công giáo Hội An, được cải táng từ năm 1976.)
(Trước đây mộ nằm gần nhà thờ Công giáo Hội An, được cải táng từ năm 1976.)
Về sau, nhà cửa đông đúc, quan chức nối tiếp. lãnh quản làng có ba vị tú tài, có gấp đôi hai mươi chức thông dịch. Nửa số dân đinh gồm hơn ba trăm người làm các công việc của tỉnh. Phải nói rằng nhiều nơi khác không đâu sánh bằng như thế?
Nhớ lại, làng ta có được như ngày nay là do mười vị đại lão xây dựng nên thành tựu. Nối tiếp có ba vị đại gia công đúc to lớn như đã thấy.
Nhìn quê hương, nhớ gốc tích, người làng đồng lòng. Tâm tưởng ấy trước và sau cũng vậy! .
Thời Minh Mạng năm thứ nhất (1820) xây dựng đình tiền hiền, khắc chữ trên hoành phi là "Tụy Tiên Đường ”.
Thời Tự Đức năm thứ hai (1849), trùng tu.
Qua nhiều năm tu bổ nhưng đất kề đường đi ồn ào, không được yên tĩnh nên đến thời Thành Thái năm thứ mười bảy (1905) xem bói rồi chuyển dời sang bên trái Trừng Hán Cung xây theo tọa nhâm hướng bính đem tâm lực đôn đốc công việc, chọn tháng tư khởi công đến tháng tám hoàn thành, chi phí số tiền hơn hai ngàn đồng đều do thân hào, sĩ thứ cùng với vật lực quyên cúng. Nhờ như vậy mới làm nên việc đáng ngưỡng vọng.
Dân làng ta dựng văn bia để ghi chép mà biểu dương.
Tiền hiền ta công đức vô cùng to lớn; quyên cúng làm việc thiện là điều cần thiết. việc ấy không thể mất đi được vậy trình bày danh tánh như sau. (Có thể bia công đức này đã bị thất lạc).
Thời điểm : Duy Tân, năm thứ hai (1908), tháng bảy, ngày tốt.
Bổn xã gồm những người sinh sau cùng nghiêng đầu bái soạn.
Cử nhân khoa Giáp Ngọ, Trương Đồng Hiệp thay mặt soạn."
Văn bia năm Bảo Đại thứ mười tám (1943)
Do ông Tăng Kim Luyện (1880-1945), còn gọi là ông cữu Mính, thầy dạy chữ nho, phẩm hàm: Phiếm Cửu phẩm bá hộ, phụng viết. Ông Phạm Thúc Hồng dịch nghĩa.
"Vì rằng tiền nhân đã có công sáng tạo, hậu sinh phải có trách nhiệm bồi đắp.
Tại làng ta, các vị tiền bối đến phương nam tính đã hơn ba trăm năm, kiến lập đình miếu nhiều nơi, trải qua nhiều đời trùng tu đều có văn bia ghi lại. Hiện tại có ba nơi thờ tự tọa lạc gần nhau giữa vùng đô thị thật rạng ngời văn vật nhưng năm tháng đã lâu, phải theo thời gian mà tu bổ lại, không nên trì hoãn.
Mùa thu năm Canh Thìn (1940), bổn xã huy động thợ sửa sang chánh tẩm, làm mới cổng tam quan chùa Phật.
Trừng Hán Cung được sơn son, trang trí và sửa mái hiên để làm nhà bia.
Tụy Tiên Đường, trước được quy tụ về cuối phố. lại lần nữa chuyển miếu cũ Minh Văn đến khu đất phía tây. Lấy nguyên khu đất ấy kiến tạo hai bên trái, phải phòng làm việc của hội đồng biện sự. Phía sau có vườn hoa, có tường ngoài bao bọc. Quả là đạt lòng kỳ vọng. Ngoài ra, hành lang khúc khuỷu thâm u được dựng lan can, nâng cao sáng sủa, thật là tân kỳ.
Đến nay, hoàn thành công trình tổng cộng chi phí số tiền hơn sáu ngàn đồng. Một nửa do làng ta trích chi, một nửa do hương hào, sĩ nữ trong xã và ngũ bang thành phố phụng cúng.
Làng ta không có công điền, nhưng đền miếu đều được trùng tu to lớn. sở nguyện được hoàn thành do sự đồng lòng vì nghĩa lớn, tạo nên tiềm năng toàn xã hội tức là của người làng vậy! .
Ngày nay, làng ta nối tiếp công lao của tiền nhân để lại mai sau, mong có người tốt tiếp nối phong tục của làng.
Theo sự tiến triển, phép tắc của làng được phát huy, công nghiệp ngày càng thịnh vượng về sau. Thật quý giá vô cùng vậy. Quan viên, hương chức trong xã cùng với quý vị hão tâm ghi tên trên bia đá để biết cùng với phương danh ngũ bang thành phố, thân hào tín nữ lạc cúng liệt kê khắc vào hai văn bia dựng tại nhà hiên Trừng Hán Cung...”
Văn bia miếu Minh Văn lập năm1875
"Tử Đồng thuộc huyện Tứ Xuyên. Trời Tứ Xuyên có sao Sâm. Sao Sâm tượng trưng trung, lương, hiếu, cẩn. Đó là vùng đất có núi cao, sông sâu làm tinh thần sáng suốt.
Ở vùng ấy, có người nói rằng, cai quản trên cao là Văn Xương làm chủ sáu phủ do được thưởng công truy tước. Lại có người nói rằng, thần là Trương Tú, một nhà thơ, còn gọi Trương Trọng, người có lòng hiếu hữu.
Đền thờ Tử Đồng ở đó có trường học rất quy cũ.
Làng ta có văn phong căn bản, ngày ngày giữ gìn như bản in vậy. Kẻ sĩ được ca ngợi chất phát, tƯơi tốt như cây rong, cây rau nhưng lại vượt lên như hàng khoa bảng.
Với lòng tin nơi u minh, thần lặng lẽ hiện diện lâu dài. Lễ vật có vượn, lừa, ngựa. việc nghĩa có thêm ứng khởi.
Thời vua Tự Đức, mùa xuân năm quý sửu (1853), những người cùng ý chí trong làng xuất tiền riêng lập hội Minh Văn, lập đền thờ Đế Quân, mặc dù chưa đủ khả năng, thường xuyên chọn cử người điều hành công việc.
Xà cò miếu Văn Xương của hội Minh Văn ghi:
Tự Đức nhị thập bát niên, tuế thứ Ất Hợi, thất nguyệt, cát nhật.
Minh hương xã, Minh Văn hội, bổn hội đồng tạo.
Nhân lúc ngày tốt vào tháng giêng, người làng tập trung tại nhà Huỳnh Dư Sưu, lòng thành dọn mâm bàn thiết lễ hết lòng cầu cúng. Do sự kính trọng ấy, thần Văn Tinh đáp lễ phát chẩn ơn thần. Người trong hội có việc quan, hôn, tang, tế thì góp tiền sức giống như người trong làng: sự việc đã qua vẫn nhớ mãi.
Ngài Đế Quân xưa đã di huấn, người làng không có học vấn thì không được vào hội. Người làng vào hội, không ra vào tự do. Chung quy ý chí đó nhằm xây dựng quy chế chặt chẽ cho mai sau.
Trải qua 12 năm (1853-1865), hương hỏa kế tục như ngày đầu nếu không có văn chương khó đạt được tiết tháo, hành vi trong sáng đó.
Đế Quân chuộng phước đức. Chúng ta tự lập phép tắc văn chương để duy trì.
Thời vua Tự Đức năm thứ mười tám (1865), vị quan lớn là Trung Thuận đại phu, Hồng Lô Tự Khanh, làm bố chánh Quảng Nam, đỗ đầu khoa thi hương năm Đinh Mùi, hiệu là Vọng Tân, tự là Hoàng Trung, họ Đặng đã viết bài văn lập hội truyền lại đến năm nay.
Cũng trước đó, quan bố chánh họ Đặng đã viết bài tựa. nhờ vậy việc thành lập hội và điều lệ của hội được ghi lại cho đến ngày nay.
Đã qua 10 năm (1865-1875), không nhớ đầy đủ. nếu không có lời văn ấy thì không thể biết thời kỳ đầu lập hội.
Mùa xuân năm này (1875), cùng xuất tiền mua đất tư tại làng đông trà, lấy ngày tháng tốt lập đền thờ để tế tự vĩnh viễn, báo đáp ơn thần. Các nhà hảo tâm trong làng ta có khả năng đóng góp tăng thêm lòng kỳ vọng vậy.
Nay, hội viên ghi số tiền vào bên trái, như sau :.. ... ... " (Văn Xương Đế Quân hay Văn Xương Tinh là vị thần được dân gian lẫn Đạo giáo tôn sùng là thần chủ quản công danh phúc lộc của sĩ nhân
Văn Xương Đế Quân vốn sinh đầu đời Chu, đã trải 73 kiếp hóa thân, từng là sĩ đại phu, cuối đời Tây Tấn giáng sinh nơi đất Thục, tên là Á họ là Trương, tự là Bái Phu, được lệnh Ngọc Hoàng Thượng Đế cho chưởng quản Văn Xương phủ và Lộc tịch (sổ sách về quan lộc) của nhân gian.)
BÀI VỊ
Gian giữa thờ bài vị "Minh Hương xã lịch đai hương hiền".
Bài vị viết theo "Tụy Tiên Đường tiền hiền hương phả đồ bản" lập năm Minh Mạng thứ nhất (1820), cùng năm xây dựng Tụy Tiên Đường, tu soạn năm Thiệu Trị thứ sáu (1846). Lý Thành Ý chép vào mùa đông năm Tự Đức thứ ba mươi ba (1880).
Bài vị ghi Thập Đại Lão, sáu họ HỨA, NGỤY, NGÔ, NGŨ, TRANG, THIỆU là Lục Tánh Minh Hương, Tam Gia: TRƯƠNG HOÀNH CƠ, NGÔ ĐÌNH KHOAN, TẨY QUỐC TƯỜNG, Liệt vịHƯƠNG QUAN, HƯƠNG LÃO, HƯƠNG TRƯỞNG.
Bài vị viết theo "Tụy Tiên Đường tiền hiền hương phả đồ bản" lập năm Minh Mạng thứ nhất (1820), cùng năm xây dựng Tụy Tiên Đường, tu soạn năm Thiệu Trị thứ sáu (1846). Lý Thành Ý chép vào mùa đông năm Tự Đức thứ ba mươi ba (1880).
Bài vị ghi Thập Đại Lão, sáu họ HỨA, NGỤY, NGÔ, NGŨ, TRANG, THIỆU là Lục Tánh Minh Hương, Tam Gia: TRƯƠNG HOÀNH CƠ, NGÔ ĐÌNH KHOAN, TẨY QUỐC TƯỜNG, Liệt vịHƯƠNG QUAN, HƯƠNG LÃO, HƯƠNG TRƯỞNG.
Lý Thành Ý chép thập đại lão gia gồm:
Khổng thái lão gia
Nhan lão gia
Dư lão gia
Từ lão gia
Chu lão gia
Hoàng lão gia
Trương lão gia
Trần lão gia
Thái lão gia
Lưu lão gia
Thập Đại lão là những di thần nhà Minh, đến Hội An năm 1644.
Khổng thái lão gia
Nhan lão gia
Dư lão gia
Từ lão gia
Chu lão gia
Hoàng lão gia
Trương lão gia
Trần lão gia
Thái lão gia
Lưu lão gia
Thập Đại lão là những di thần nhà Minh, đến Hội An năm 1644.
Bài vị gian thờ bên trái (đông/tả)
Chính giữa là bài vị thờ SƯ HUỆ HỒNG.
Sư Huệ Hồng là người tỉnh An Huy, Trung Hoa. Có thể sư là trụ trì chùa Quảng An đời thứ tư. Bài vị ghi: Trùng Kiến Viên Tịch, đệ tứ đại, hiệu Huệ Hồng, húy thượng Quảng, hạ Thảng công đại thiền sư liên tọa. (Trùng Kiến Viên Tịch, đời thứ tư, hiệu Huệ Hồng, tên húy trên là Quảng, dưới là Thảng, đại thiền sư ở tòa sen). Bên phải ảnh là bài vị thờ BAN TAM BẢO VỤ.
Lý Tam Bảo Vụ Ban là một tổ chức của làng Minh Hương lập ra để quản lý làng. Bài vị ghi: Lý tam Bảo Vụ ban tiền vãng liệt vị. Canh Tý niên (1960), xuân phân tiết. Bổn thôn đồng cung tạo. Bài vị còn lại thờ CHƯ TỘC PHÁI MINH -THANH
Bài vị ghi: Minh-Thanh chư tộc phái từ đường chi tiên linh liệt vị Bài vị gian thờ bên phải (tây/hữu)
Chính giữa là bài vị thờ BÀ HỌ NGÔ:
"Khai sơn đại Đàn Việt chủ, Trịnh môn Ngô thị, pháp danh Diệu Thành thần vị"
Bên phải ảnh là bài vị thờ HỘI MINH VĂN:
"Văn Xương miếu, Minh Văn hội, hội viên tiền vãng liệt vị"
Bài vị còn lại thờ LÝ TRƯỞNG XÃ CỔ TRAI:
"Cổ Trai xã, lý trưởng Lý Hữu Hưng thần vị"
Dân làng Cổ Trai, phía đông làng Minh Hương, cũng là người Trung Quốc đến Hội An làm nghề buôn bán. Lý trưởng Lý Hữu Hưng được phụng tự như hậu hiền
Bài vị thờ ký tự gian đông, giỗ từ tháng giêng đến tháng sáu
Bài vị thờ ký tự gian tây, giỗ từ tháng bảy đến tháng chạp
Ngoài ra trước chánh tẩm còn phối thờ ba bài vị chuyển từ chùa Bà Mụ đến:
DƯỢC VƯƠNG BỔN ĐẦU CÔNG VỊ
BẢO SANH ĐẠI ĐẾ
THIÊN HẬU THÁNH MẪU
Cuối cùng là xà cò đình Tiền Hiền Minh Hương phục chế đúng nguyên mẫu Xà cò miếu Văn Xương của hội Minh Văn. Một việc làm cẩu thả và tắc trách!!