Bảo tồn di tích kiến trúc ở Hội An khó khăn và thách thức
- Thứ sáu - 20/04/2012 16:02
- In ra
- Đóng cửa sổ này
Bảo tồn di sản kiến trúc là một trong những nhiệm vụ quan trọng nhằm hướng đến xây dựng thành công Hội An thành phố Sinh thái - Văn hoá - Du lịch. Trong những năm qua với sự nổ lực chung của hệ thống chính trị và sự đồng thuận của nhân dân, công tác bảo tồn di sản kiến trúc ở Hội An đã đạt được những kết quả lớn. Tuy nhiên, trong bối cảnh hội nhập và phát triển hiện nay, công tác bảo tồn di sản kiến trúc ở Hội An đang đứng trước những khó khăn và thách thức.
Trong những năm qua, chính quyền và nhân dân Hội An luôn nỗ lực trong công tác quản lý bảo tồn các giá trị di sản; song song với các định hướng phát triển của một đô thị Hội An xanh - sạch - đẹp, một đô thị sinh thái, chính quyền địa phương luôn đặt mục tiêu hàng đầu là bảo tồn nguyên vẹn các giá trị kiến trúc của tiền nhân. Tuy nhiên, suy nghĩ, nhận thức là như vậy, thực tế di tích kiến trúc Hội An hiện đang đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức. Công tác quản lý, bảo tồn di sản đô thị trong xu thế phát triển của thời đại mà ở đó người dân đang sống, sinh hoạt đã đặt ra nhiều vấn đề cần giải quyết, dung hòa: Bảo tồn giá trị di sản kiến trúc và Phát triển kinh tế, xã hội.
Trước hết, những khó khăn mà chính quyền địa phương, những chủ nhân của di sản đang phải thường xuyên đối mặt là sự xuống cấp của di tích. Các di sản kiến trúc Hội An phần lớn tập trung trong khu phố cổ (hơn 1000 di tích, trong đó chiếm hơn 82% là thuộc sở hữu tư nhân) có niên đại khởi dựng từ trước thế kỷ 19 và hầu hết các cấu kiện chịu lực chính chủ yếu là gỗ, mái lợp ngói âm dương đất nung theo thời gian, tuổi thọ của vật liệu đã “tới hạn”. Bên cạnh đó, do tác động của điều kiện tự nhiên khắc nghiệt của khu vực như nắng nóng, mưa nhiều, nhất là lũ lụt thường xuyên hằng năm nên các di tích hiện đang xuống cấp trầm trọng, có nguy cơ bị sụp đổ bất cứ lúc nào. Theo thống kê của Trung tâm Quản lý Bảo tồn Di sản, số lượng di tích cần chống đỡ hằng năm trước mùa mưa bão lên đến hàng trăm, trong đó hàng chục di tích (thường là nhà ở trong khu phố cổ) được khuyến cáo, thậm chí yêu cầu người dân phải di dời đến nơi khác để đảm bảo an toàn trong thời gian có bão, cá biệt có trường hợp phải hạ giải khẩn cấp di tích (nhưng tuân thủ qui định trong công tác bảo tồn - trùng tu) để tránh nguy cơ bị sụp đổ.
Vật liệu truyền thống phục vụ cho công tác công tác tu bổ cũng là khó khăn không thể không kể đến. Yếu tố về tính chân xác đòi hỏi tuân thủ cả trong nguyên vật liệu sử dụng tu bổ. Để tu bổ một di tích, số lượng lớn ngói, gạch, gỗ, vôi vữa truyền thống được cần đến. Hiện nay, trên địa bàn địa phương, gạch, ngói (ngói cong đất nung truyền thống) không đảm bảo về số lượng, chất lượng và cả về kích thước vật liệu. Ngói sử dụng trong tu bổ thường có kích thước là 16 x 16 x 0,7 (cm), trong khi đó ngói cũ thường có kích thước và độ dày lớn hơn. Nguyên liệu để sản xuất ngói là đất sét bị khan hiếm và pha lẫn cát và nhiều tạp chất, do đó viên ngói thành phẩm sau khi nung thường có độ cong không đồng đều, chất lượng thấp, thậm chí một số lượng lớn ngói tự phân hủy chỉ sau từ 2 - 3 năm sử dụng. Nguồn gỗ để phục vụ cho tu bổ cũng bị khan hiếm do cấm khai thác rừng, và gỗ tu bổ di tích ở Hội An thường là gỗ kiền kiền Quảng Nam. Vữa vôi truyền thống do không còn sản xuất nên được thay thế bằng vữa ba-ta (pha trộn giữa xi măng, cát và vôi bột hiện có bán sẵn trên thị trường), do đó công tác trát vữa, lợp mái ngói âm dương bằng vữa vôi với vật liệu được pha trộn như đã nói, cho dù được ủ kỹ trước khi sử dụng nhưng thực tế vẫn không đảm bảo cho công tác tu bổ, đó là yêu cầu về độ dẻo kết dính, sự co giãn vật liệu (giữa vữa vôi và ngói đối với hệ mái)không đồng đều trong quá trình sử dụng dẫn đến hiện tượng co nhót, ngày càng xuất hiện nhiều vết nứt, hở, kéo theo là sự thấm dột mái vào mùa mưa dẫn đến sự nhanh xuống cấp của di tích.
Kinh nghiệm, chuyên môn của đội ngũ thợ thi công tu bổ, đội ngũ cán bộ kỹ thuật quản lý trùng tu vẫn còn nhiều hạn chế. Nhận thức, hiểu biết về giá trị di tích chưa đủ cũng là tác nhân gây trở ngại, khó khăn cho công tác tu bổ, thậm chí làm sai lệch giá trị di tích sau khi tu bổ.
Những khó khăn thực tại là vậy, nhưng những thách thức mà công tác bảo tồn ở Hội An đã, đang và sẽ đối mặt cũng là một áp lực lớn cho chính quyền địa phương, những người làm công tác quản lý.
Lũ lụt xảy ra hằng năm với tầng suất ngày càng cao, tình trạng biến đổi khí hậu đã ảnh hưởng trực tiếp đến các di tích ở Hội An. Mực nước biển dâng, vấn đề xả đập của các nhà máy thủy điện ở thượng lưu sông Thu Bồn vào mùa mưa lũ khiến cho mực nước hạ lưu sông Thu Bồn lên nhanh, gây lụt đã ảnh hưởng rất lớn đến các di tích trong khu phố cổ.
Nguy cơ cháy nổ cũng thường trực tại các điểm di tích. Những mặt hàng kinh doanh như vải, các đồ lưu niệm bằng gỗ, tre trưng bày dày đặc trong di tích là nguy cơ tiềm tàng để bà “Hỏa” chực chờ viếng thăm bất cứ lúc nào.
Áp lực về phát triển du lịch cũng tác động trực tiếp đến công tác bảo tồn di tích. Du lịch phát triển mạnh đem lại nguồn thu đáng kể cho nguồn ngân sách địa phương, đời sống của người dân được cải thiện rõ rệt. Tuy nhiên, lượng khách đến tham quan Hội An nhiều và tập trung hầu hết tại khu phố cổ (với diện tích chỉ hơn 0,6 km2) cộng với người dân bản địa dẫn đến tình trạng cơ sở hạ tầng quá tải. Các loại hình kinh doanh dịch vụ phục vụ du lịch phát triển mạnh, kéo theo diện tích dành cho kinh doanh tăng lên. Cũng với vài chục mét vuông diện tích, trước đây chỉ sử dụng cho nhu cầu ở, nay phải gánh thêm nhu cầu kinh doanh (chiếm hầu hết diện tích của di tích) nên việc cơi nới di tích vẫn âm thầm diễn ra mặc dù các cơ quan quản lý thường xuyên kiểm tra.
Các di tích trong khu phố cổ là vậy, các di tích vùng ven cũng có số phận không khá hơn. Xu hướng “hoành tráng hóa” di tích đang ngày một có chiều hướng gia tăng. Di tích tín ngưỡng như miếu, lăng hoặc là bị lấn chiếm, xâm hại (nếu nằm trong khu dân cư), hoặc có chăng được cộng đồng dân cư bảo vệ, giữ gìn và được đầu tư cải tạo lại qui mô hơn nhưng đổi lại di tích đã bị “trẻ hóa”.
Các di tích tôn giáo thì mức độ “hoành tráng” được nâng lên một bậc. Các ngôi chùa, thánh thất, nhà thờ trên địa bàn Hội An trước đây với qui mô vừa phải, phù hợp với cảnh quan, con người Hội An thì nay, việc đầu tư mới, cải tạo, tăng qui mô lại là niềm tự hào cho các cơ sở tôn giáo hiện nay. Sự can thiệp của các cơ quan nhà nước, các tổ chức xã hội đến các chủ thể, người đứng đầu các cơ sở tôn giáo nhằm hạn chế sự biến đổi giá trị di tích cho dù kịp thời nhưng lý do đưa ra để cải tạo nâng cấp là nhằm phục vụ cho nhu cầu tôn giáo của các phật tử, con chiên tại các cơ sở tôn giáo này… và cứ thế, sự biến dạng di tích tôn giáo trên địa bàn Hội An vẫn là một thách thức.
Việc “đóng băng” bảo tồn các giá trị kiến trúc di tích, đặc biệt là di tích khu phố cổ Hội An - một di tích sống trong thời đại hiện nay là trái với qui luật phát triển. Tuy nhiên, không vì vậy mà xem nhẹ giá trị di sản của tiền nhân, công tác bảo tồn di tích được chính quyền và cả người dân Hội An hết sức quan tâm. Trong những năm qua, với những nỗ lực trong công tác bảo tồn, Hội An liên tục được UNESCO ghi nhận là một trong những địa điểm bảo tồn tốt các giá trị di sản văn hóa ở khu vực Châu Á - Thái Bình Dương. Bên cạnh những điều kiện thuận lợi về tự nhiên (biển, đảo), Hội An cũng đã kế thừa các giá trị di sản vốn có, giá trị tạo nên thương hiệu Hội An để tạo động lực cho phát triển du lịch. Theo kết quả khảo sát của Hiệp hội Du lịch Mỹ (USTOA), Việt Nam là quốc gia đứng đầu trong danh sách được du khách quốc tế lựa chọn khám phá trong năm 2012, đặc biệt hơn, Di sản văn hóa thế giới phố cổ Hội An (cùng với thành phố vì hòa bình Hà Nội) được lọt vào tốp 10 điểm đến hấp dẫn của châu Á trong năm 2011.